Đỗ Thải Hà lên đến đình nghỉ mát thì thấy ông sư phụ nhà mình vẫn chưa về cổ viện, mà đang nâng thứ cổ vật thần bí lên nhìn chằm chằm, thỉnh thoảng lại bật cười. Bảo vật đang sáng lập lòe, thỉnh thoảng lại có tiếng nói phát ra í ới.
Số là…
Nguyễn Đông Thanh thấy chiếc điện thoại đã không sử dụng để liên lạc hay điều tra gì được, mà bỏ thì dở, nên mới tranh thủ lúc còn pin giải trí một chút. Do đã rất lâu không được xem phim, thành thử Bích Mặc tiên sinh của chúng ta xem rất xuất thần, cơ hồ không hề chú ý gì đến những chuyện xảy ra dưới chân núi.
Thế nhưng, hành động này trong mắt Đỗ Thải Hà lại chẳng khác nào gã đang chờ mình.
Cô nàng chặc lưỡi một cái, thầm nghĩ:
“Hóa ra sư phụ sớm đã liệu trước được hôm nay còn có khách tới thăm, nên mới ngồi chờ sẵn.”
Làm sư đồ với nhau đã được một năm, Đỗ Thải Hà cũng hiểu đại khái tính nết của ông thầy, ít nhất là trong lúc đang “giả làm phàm nhân”. Nguyễn Đông Thanh là kiểu người nếu ngồi được thì nhất quyết không đứng, nếu nằm được thì chắc chắn sẽ không ngồi.
Nói trắng ra, ông sư phụ bọn họ làm người có rất nhiều ưu điểm, nhưng nhược điểm lớn nhất có lẽ chính là lười biếng.
Bình thường, tiếp khách xong, Bích Mặc tiên sinh chắc chắn sẽ không lãng phí một chút thì giờ nào, lóc cóc quay lại Lão Thụ cổ viện ngay lập tức. Thành thử, Đỗ Thải Hà thấy giờ này ông sư phụ còn ngồi đây thì chỉ có thể có một nguyên do: còn chưa tiếp khách xong.
Nguyễn Đông Thanh thấy cô nàng thì hắng giọng một cái, đưa tay chạm lên “cổ vật”. Tức thì tiếng động, ánh sáng gì gì đó hết thảy đều ngưng lại. Gã nhìn sang, hỏi:
“Hà đấy à? Chuyện của Phó cô nương thế nào rồi? Thằng Vân có nhận dạy người ta không?”
“Bẩm thầy, việc đó Phó cô nương vẫn chưa kịp hỏi ý kiến đại sư huynh, nhưng con lên là có chuyện khác cần thưa. Hiện giờ dưới chân núi đang có một vị tự xưng là châu chủ châu Ngọc Lân, thành chủ thành Bạch Đế đến tìm. Sư phụ có muốn tiếp người ta hay không để bọn học trò còn tiện tiếp đón?”
Đỗ Thải Hà đáp.
Nguyễn Đông Thanh mới đầu còn chưa nghe kỹ, theo bản năng “à” lên một tiếng. Sau đó, dường như nhận ra trong câu nói của con bé đồ đệ nhà mình có gì đấy không đúng lắm, gã mới è è cổ hỏi lại:
“Cái gì? Châu trưởng? Tức là thượng cấp của Vũ tổng binh?”
“Dạ phải.”
“Đương nhiên phải tiếp. Được rồi, con gọi Thanh Vân lên đây đỡ thầy xuống núi.”
Nguyễn Đông Thanh hiện tại gãy xương chân, đi lại không tiện. Vốn là gã muốn nhờ Đỗ Thải Hà dìu mình xuống núi, song lại nghĩ nam nữ thụ thụ bất thân, gã là thầy của cô nàng thì lại càng cần phải giữ khoảng cách, nên mới bảo cô nàng gọi thằng nhóc Lý Thanh Vân lên núi.
Chẳng mấy chốc…
Nguyễn Đông Thanh đã đứng trước đại quân hừng hực khí thế, ngân thương tuốt trần mà không khỏi rùng mình một cái, mặt tái mét như tàu lá chuối.
Gã sinh ra trong thời bình, tiếp xúc gần nhất với quân đội cũng chỉ là mấy tháng đi học quân sự mà thôi. Thế nên, đối với Bích Mặc tiên sinh mà nói, đội quân vừa tinh nhuệ vừa thiện chiến, lại kinh qua mưa máu gió tanh sa trường trước mặt này chẳng khác nào ngọn núi lớn, cơ hồ có thể khiến hắn ngộp thở.
Hàng ngàn ánh mắt ưng sáng quắc, sắc như dao cạo chẳng khác nào một trận mưa tên găm vào người gã. Nếu không phải hiện tại Nguyễn Đông Thanh chân đau, mang nạng chống người thì chắc đã ngã ngồi xuống đất.
“Vị này chắc hẳn là Bích Mặc tiên sinh rồi.”
Hồ Ma Huyền Nguyệt hắng giọng một cái, tức thì toàn bộ hai ngàn binh mã lập tức thu hồi khí thế, mắt nhìn mũi, mũi nhìn tâm, cơ hồ chỉ trong tích tắc đã không còn một ánh mắt nào hướng về gã nữa.
Nguyễn Đông Thanh lần nữa được thể nghiệm thế nào mới là binh sĩ tinh nhuệ.
So với dân quân thủ thành ở ải Quan Lâm thì quả thực chẳng khác nào trời với vực. Song, kỳ thực nếu phải lựa chọn, Bích Mặc tiên sinh vẫn thích mấy tay dân quân thủ thành chân chất thật thà vẫn hay vẫy tay chào gã hơn.
“Đúng là tại hạ, hai chữ tiên sinh thì không dám nhận, xin bái kiến châu chủ. Thứ cho tại hạ bị thương ở chân, đi đứng không tiện, không hành lễ được.”
Nguyễn Đông Thanh chắp tay hoàn lễ.
Hồ Ma Huyền Nguyệt gật đầu;
“Tiên sinh nói vậy là chưa đúng rồi. Cũng nhờ có tiên sinh mà bản thành chủ loại bỏ được một đám sâu mọt trong quân. Công của tiên sinh lớn như vậy, ta chưa thi lễ cảm ơn với ngài còn là trái lễ, sao lại nói là không xứng đáng?”
Vừa nói dứt lời, thì đã có một toán lính thi nhau khệ nệ bưng một đống rương hòm đủ loại lên.
Thành chủ Bạch Đế thành hắng giọng, nói:
“Bản thành chủ đã dâng tấu nhận tội lên thánh thượng, nay đến đây dâng chút lễ mọn tưởng thưởng cho sự thanh liêm chính trực, cũng như công lao hãn mã của tiên sinh. Tiên sinh yên tâm, những vật này đều đúng theo luật pháp của Đại Việt, không nhiều một xu không ít một đồng, chắc chắn không phải tham ô tham nhũng gì cả.”
Đoạn nghiêm sắc mặt, đọc:
“Bích Mặc tiên sinh nghe chỉ.
“Châu chủ châu Ngọc Lân làm việc tắc trách, để gian thần lộng hành, ô lại nhiễu dân, đáng lý nên trảm thị chúng. Nhưng xét thấy cũng vì Hải Thú rục rịch vào bờ, liên quân lục quốc nhập quan, trăm công nghìn việc như thế, người trần mắt thịt cũng khó tránh khỏi có sai lầm tắc trách. Song thiên tử có tội xử như thứ dân, tuy có nguyên do, song không thể vì vậy mà bãi trừ trách nhiệm. Bởi thế phạt bổng lộc một năm gọi là tội sống. Nếu không hối cải, thì hai tội xử luôn một lần.
“Bích Mặc tiên sinh không sợ cường quyền, liêm chính cứng cỏi, thực là một vị quan thanh liêm thương dân như con, có phong phạm của bậc quân tử. Có thần tử như vậy thật là tiên tổ phù hộ cho quả nhân, là phúc của vạn dân trăm họ. Quả nhân xưa nay thưởng phạt phân minh, nên thưởng cho tiên sinh một vạn quan tiền, năm mươi xấp lụa là gấm vóc, mười bốn cây huyết ngọc san hô, tám gốc nhân sâm Hoàng Liên hai ngàn tuổi, một cây Hà Thủ Ô đã thành hình, mười mẫu ruộng tốt, hai mươi con trâu cày, một thạch Linh Mễ. Lại đặc cách thăng quan cho Bích Mặc tiên sinh lên hai phẩm, bổng lộc mỗi năm bốn trăm thạch, để làm gương cho bá quan văn võ.
“Khâm thử.”
“Thảo dân tiếp chỉ.”
Nguyễn Đông Thanh cúi đầu hành lễ, hai tay giơ lên.
Tờ chiếu chỉ kia viết chả theo quy chuẩn, bản mẫu gì cả, cũng không thấy ghi ngày tháng niên hiệu gì cả, trông chẳng khác nào một trò đùa vậy.
Nếu không phải đã từng gặp tận mắt Dực hoàng đế, biết cái kiểu chiếu thư chẳng giống ai này rất… phù hợp với tính cách của y thì có lẽ Bích Mặc tiên sinh còn ngờ rằng thành chủ thành Bạch Đế giả truyền thánh chỉ để đổ cho hắn cái tội tham ô tham nhũng rồi.
Hồ Ma Huyền Nguyệt thấy gã tiếp chỉ rồi, mới cười:
“Chúc mừng tiên sinh.”
“Châu chủ khách sáo. Dám hỏi lần này ngài tự mình lặn lội đường xa đến đây còn chuyện gì nữa hay chăng?”
Nguyễn Đông Thanh vừa giao tờ chiếu thư cho đồ đệ cất, vừa dè dặt lên tiếng hỏi. Theo gã thấy, nếu chỉ để truyền chỉ thì Dực hoàng đế phái một thái giám đến là được, cần gì phải để châu chủ Ngọc Lân châu đích thân dẫn đại binh đến đây?
Huyền Hoàng giới có truyền tống trận, có là người bình thường thì từ Cổ Long đi Quan Lâm rồi về cũng chẳng mất nhiều thời gian, càng huống hồ là kẻ có công vụ.
Thế nên…
Nguyễn Đông Thanh mới đoán chắc rằng lần này Hồ Ma Huyền Nguyệt tự mình chạy đến gặp gã là có chuyện khác muốn sai phái. Dẫn đại binh theo chỉ e cũng là một kiểu ra oai phủ đầu, đại loại như kiểu “ngươi đừng tưởng được hoàng thượng khen thưởng mà dám bật chủ tịch”.
Hồ Ma Huyền Nguyệt đáp:
“Không dám giấu tiên sinh, chuyện kể ra thì dài. Không biết có thể tìm chỗ nào ngồi xuống từ từ nói hay không?”
“Vậy thì mời châu chủ đi theo tại hạ.”
Nguyễn Đông Thanh gật đầu, đoạn dẫn vị thành chủ thành Bạch Đế này lên núi, vào đình tiếp khách ngồi.
Bản thân hắn cũng tò mò muốn biết rốt cuộc trong hồ lô của vị châu chủ này rốt cuộc bán loại thuốc gì.
oOo
Biển Phong Bạo…
Nghiêm Hàn chậm rãi đạp trên đầu sóng, bình tĩnh tiến về phía trước. Chung quanh bão tố gào thét, biển động ầm ầm. Mỗi ngọn gió đều như một nhát dao chém về phía gã, mỗi con sóng xô đến đều khủng khiếp chẳng khác nào búa tạ giáng vào. Thế nhưng, bất kể là sóng hay gió thì đều chẳng tài nào chạm nổi vào chéo áo Nghiêm Hàn.
Hắn vào biển Phong Bạo đã được bốn ngày.
Sau khi Bích Mặc tiên sinh dùng một bài tân thoại đánh sập một góc Nho đạo, mấy vị đế quân của Đế Mộ cũng cảm ứng được. Trong lúc tiên hiền vãng thánh vì một bài phú của Nguyễn Đông Thanh mà bật khóc, thì y vô tình bắt được vết tích của Văn Thánh – Mặc Ngạn Bác – lẩn khuất trong Vụ Hải.
Thế là, Đế Mộ lập tức ra chủ trương mới.
Để Nghiêm Hàn tiến vào biển Phong Bạo diệt trừ tàn đảng của phe Phản Thiên, của Thế Tôn.
Nhiệm vụ thăm dò Bích Mặc tiên sinh thì giao cho một nguyên soái khác tiếp quản. Về việc người đó là Quan Vân Phi hay ai khác, thì gã không được biết, cũng không tiện hỏi nhiều.
Thành thử, Nghiêm Hàn mới phải bỏ dở chuyện đang làm, lóc ca lóc cóc chạy vào biển Phong Bạo.
Sát Thần Nghiêm Hàn khét tiếng năm nào hiện giờ lại chẳng khác gì con chó cho người ta sai tới gọi lui, điều này khiến gã vừa giận mà vừa bất đắc dĩ.
Lắm lúc chính gã cũng tự hỏi mình trường sinh mà tôn nghiêm và kiêu ngạo khi xưa chẳng còn lại mảy may thì có đáng hay không.
Nghiêm Hàn chính đang nghĩ ngợi vẩn vơ, thì bỗng nhiên rùng mình một cái, đầu quay phắt sang một bên cứ như đánh hơi được thứ gì đó. Gã nheo mắt, đồng tử lập tức hóa thành một màu xanh lục biếc thẫm như màu ngọc mắt mèo.
Chỉ thấy xa xa, lênh đênh giữa bão tố, là một cái nghiên mực.