Quả nhiên, bí thư dự đoán rất chính xác, thuyền chở đám Đỗ Kiến Quốc đi chưa được nửa ngày đã thấy trời đổi sắc. Từng đợt gió lớn cuốn sóng lên cao, người trên thuyền phần lớn đều là ngư dân, họ chỉ khóc trong sợ hãi, vì biết mình sẽ táng thân nơi biển rộng.
Đỗ Kiến Quốc ôm chặt Hạ Thanh Thanh, ông không muốn sóng biển sẽ tách hai người ra xa nhau.
Người trên thuyền chỉ đành phó thác số mệnh cho ông trời, đợi tử thần đến đón….
Ai ngờ thuyền của họ không bị sóng biển đánh lật, chỉ bị sóng đẩy trôi đi vô định. Thức ăn và nước uống trên thuyền rất ít, nhưng vì không còn hi vọng sống nên mọi người ăn rất ít, miễn cưỡng chống đỡ được nhiều ngày.
Trong lúc ai cũng cho rằng mình sẽ chết, thì bất ngờ xuất hiện một hòn đảo nhỏ. Bọn họ cũng không chủ động đưa thuyền đến đảo, chỉ mặc cho ông trời, xem sóng biển có đưa họ tới hay không.
Lúc này, có người cầu nguyện, hi vọng ông trời có thể cho những người đáng thương như họ một cơ hội sống. Họ không cưỡng cầu lên đảo, chỉ hi vọng ông trời thành toàn.
Không ngờ ông trời lại giúp đỡ, thuyền đánh cá nhanh chóng bị sóng biển đẩy, mắc cạn trên bờ. Họ kết thúc chuyến trôi dạt dài ngày trên biển, đi lên bờ.
Đỗ Kiến Quốc dìu Hạ Thanh Thanh xuống thuyền, ông nhìn hòn đảo nhỏ, thầm mong có thể ở hoang đảo này sống đến cuối đời cũng là chuyện tốt.
Thế nhưng ngàn vạn lần không ngờ, đây không phải là đảo hoang. Ở đây có rất nhiều ngư dân, chỉ là ngôn ngữ bất đồng, không thể giao tiếp được.
Đỗ Kiến Quốc từng cố diễn đạt với dân địa phương rằng họ có bệnh, sẽ bị lây, nhưng những người kia lại không hiểu. Dân ở đó còn có lòng tốt cho thức ăn nước uống, sắp xếp chỗ ở cho họ.
Đỗ Kiến Quốc rất sợ nơi này sẽ biến thành Khê Đầu Lĩnh thứ hai, nên ông dẫn mọi người đi về phía Tây hòn đảo ẩn cư ở đó, không quấy rầy cuộc sống của người dân.
Có lẽ con người ai cũng ích kỷ, thế nên sau khi thoát khỏi tay tử thần, họ đều không muốn chết. Ai cũng muốn an ổn sống trên hòn đảo lạ này, Đỗ Kiến Quốc dẫn những “Lão bệnh phong” khai hoang đất đai, bắt đầu cuộc sống mới.
Nhưng cái gì đến cũng phải đến, vì trên đảo dùng chung một nguồn nước, mà đám người Đỗ Kiến Quốc ở phía Tây, cao hơn chỗ người bản địa sống, nên nhanh chóng có dân bị nhiễm bệnh.
Đám người Đỗ Kiến Quốc cũng vì không có thuốc men chữa bệnh, nên người chết khá nhiều. Những người may mắn sống sót cũng bị bệnh làm cho tàn phế, mất khả năng sinh hoạt bình thường.
Đến khi người trên đảo phát hiện đám Đỗ Kiến Quốc mang mầm bệnh đến, thì dân bản địa đã chẳng còn mấy người.
Những người này phẫn nộ, cho rằng đám Đỗ Kiến Quốc là hóa thân của quỷ, phải bị thiêu chết, nên họ tìm đến một phù thủy, đến đêm trăng tròn sẽ thiếu chết đám người Đỗ Kiến Quốc!
Thế nhưng lúc này Hạ Thanh Thanh đã mang thai hơn 6 tháng, Đỗ Kiến Quốc không đành lòng để đứa con còn chưa chào đời của mình gặp vận rủi.
Thế là ông nhọc lòng suy nghĩ, tìm cách cứu cốt nhục của mình.
Lúc này, có một người cùng thuyền ở Khê Đầu Lĩnh đến tìm Đỗ Kiến Quốc. Trước đây ông lão này là thầy phong thủy, sau bị xem là yêu ma quỷ quái nên bị đưa đến Khê Đầu Lĩnh cải tạo lao động.
Vì tuổi đã lớn, thường bị ngất trong lúc làm việc, may mà có Đỗ Kiến Quốc và mấy thanh niên kia giúp đỡ, mới gắng sống được đến bây giờ, nhưng ông ta không ngờ mình lại mắc bệnh hủi.
Mấy ngày trước, ông ta đã tự tính cho mình một quẻ, biết không còn sống được bao lâu nên đi tìm Đỗ Kiến Quốc, dạy cho ông một phương pháp giữ mệnh là trận “Bách quỷ diệt hồn”!
Phía Tây họ ở xung quanh đều là rừng rậm, chướng khí vờn quanh, là một tấm bình phong tự nhiên. Ra khỏi rừng là một sơn cốc, ông ta đã bảo Đỗ Kiến Quốc mai táng những người chết ở đó, sau lưng họ là núi cao, người ngoài muốn vào đây nhất định phải đi qua rừng cây để lên sơn cốc.
Uy lực của Bách quỷ diệt hồn trận chính là: Người còn sống bị chướng khí bao bọc, rồi đi lên sơn cốc, sẽ bị trận pháp này hút đi ba hồn bảy phách, trở nên si si ngốc ngốc. Sẽ không ai làm hại được đám Đỗ Kiến Quốc.
Mà đám Đỗ Kiến Quốc cũng không thể rời khỏi trận bách quỷ diệt hồn, chỉ có thể vĩnh viễn ở lại trong núi. Chuyện này cũng coi như cho người dân trên đảo một chút công bằng.
Nhiều năm trôi qua, ngư dân trên đảo đều đã chết vì bệnh, mà đám Đỗ Kiến Quốc cũng chỉ có thể ẩn cư nơi thâm sơn cùng cốc, kéo chút hơi tàn sống qua từng ngày…
Tôi nghe Đỗ Kiến Quốc kể xong, chợt thấy nghi ngờ, đáng lẽ ra còn phải có đứa bé nữa mới đúng, sao lại chỉ còn mình ông ấy?
“Con chú đâu? Anh ta… có bị bệnh không?” Tôi dè dặt hỏi.
Đỗ Kiến Quốc chợt ngẩng đầu, mắt ngập nước, nhưng tôi có thể nhận ra, đây không phải nước mắt đau buồn, mà là ánh mắt tràn đầy hi vọng.
“Là con gái, sau khi nó sinh ra, cơ thể Thanh Thanh quá suy yếu nên qua đời. Vốn tôi nghĩ đứa trẻ này cũng bị nhiễm bệnh, nên sẽ chẳng sống được lâu, vì khi sinh ra, trên chân nó có chấm đỏ giống như bị phong. Thế nhưng không ngờ là con bé không bị lây nhiễm, thậm chí nó còn miễn dịch với bệnh.” Đỗ Kiến Quốc kích động nói, có thể thấy ông yêu thương con gái mình như thế nào.
Tôi nghe xong thì càng nghi ngờ hơn, nếu con gái không bị gì, sao lại không ở bên cạnh ông ấy? Thế là tôi hỏi tiếp: “Vậy con gái chú đâu? Vì sao không ở cạnh chú?”
Đỗ Kiến Quốc mỉm cười, sau đó nhấp một ngụm rồi nói: “Sau đó, cơ thể tôi càng lúc càng yếu, người bên cạnh cũng chết gần hết rồi. Con gái tôi vẫn chưa đầy 3 tuổi, nếu tôi không còn nữa, nó làm sao sống nổi. Có lẽ con gái tôi còn chưa tuyệt mệnh, có lần tôi cứu được một ngư dân ở nơi khác đến đang bị vây trong chướng khí, ông ta cảm kích tôi, nên thường xuyên lái thuyền vào đảo, lén mang cho tôi ít thức ăn. Tôi thấy ông ta rất thích con gái mình, nên đưa con gái cho ông ta.”
“Cái gì! Chú đưa con gái cho người khác!” Tôi giật mình nói.
Đỗ Kiến Quốc đau khổ nhắm mắt lại, sau đó gật đầu: “Lúc đó tôi cũng không còn cách nào khác, vì để con gái có thể sống sót, tôi chỉ phải làm như vậy… Vợ của người đó không thể sinh con, nên rất thích trẻ con. Tôi biết con gái mình theo ông ta có thể sống tốt.”
“Sau này chú có gặp lại con gái nữa không?”
“Có gặp mấy lần, ngư dân kia thỉnh thoảng sẽ đưa con bé về thăm tôi. Nhưng sau này cơ thể tôi sa sút, không muốn con gái mình khi nhớ đến cha nó lại là một người như vậy, nên bảo ông ta đừng đến nữa…” Đỗ Kiến Quốc đau buồn nói.