Không lâu sau đó, Tằng Tri Hứa đã tìm ra người bắn pháo trong tang lễ của Trang Côn.
Đó là một vài ngự trù bị Trang Côn bóc lột nhiều năm, họ hận Trang Côn đến tận xương tủy nên đã bàn bạc rồi đến trước linh đường bắn pháo để xả giận.
Thế nhưng tất cả đều phủ nhận mình là hung thủ giet Trang Côn, để chứng minh sự trong sạch, họ còn kể thêm chuyện bắn pháo trước linh đường do chính Trang Côn nói lúc trước.
Hóa ra, trong lễ tang của Hồ Càn, Trần Tế Đường và Đổng Xuân Lai cũng đều có người gõ chiêng trống, bắn pháo ăn mừng trước cổng.
Những người bắn pháo này sau đó cũng bị tìm ra, đa phần đều là những khổ chủ bị ba người này hãm hại khi còn làm quan.
Người nhà của ba người đó thấy đây không phải là chuyện vinh quang gì nên chưa từng lan truyền ra ngoài.
Nghe có vẻ giống hệt lúc Đào Hành Như chết.
Nguyên nhân cái chet của Trang Côn mới đây đã được điều tra rõ, chết vì bệnh tim, không có gì đáng nghi, y như cái chet của Đào Hành Như.
Tiếp tục điều tra, ta phát hiện ra cái chet của Hồ Càn và những người khác thực ra rất có điều đáng ngờ:
Hồ Càn bị ngã ngựa, chết ngoài ý muốn.
Trần Tế Đường vì uống quá nhiều rượu mà té cuống sông đào bảo vệ quanh thành, chet chìm ngoài ý muốn
Đổng Xuân Lai, người rất thích tìm hoa vấn liễu, chết một cách thảm hại nhất, chet vì “thượng mã phong” trong kỹ viện.
Những người này đều đang ở tuổi tráng niên, ngay cả Đào Hành Như năm năm trước cũng chưa đến tuổi biết mệnh trời, sao có thể đột ngột chet như vậy?
Rõ ràng, nguyên nhân cái chết của họ có vấn đề.
Có người mưu sát bọn họ và nguỵ tạo cái chet thành ngoài ý muốn.
Và tất cả những điều này, có lẽ bắt đầu từ Đào Hành Như.
Liên tưởng đến lời của Đào Lệ trong lễ tang của Trang Côn và thái độ lạnh lùng của Thường Tề Tinh, Tăng Tri Hứa nhanh chóng tập trung vào một người—Thường Tề Tinh, người vẫn còn sống đến nay.
Nhưng Thường Tề Tinh có thù với Đào Hành Như thì còn có thể hiểu được, còn với bốn người kia không phải là bằng hữu của y sao? Tại sao lại muốn giet họ?
Hơn nữa, ta đã tra qua các ghi chép làm việc của Thường Tề Tinh trong hai năm qua, lúc bốn người kia chet, y đều có chứng cứ ngoại phạm.
Đúng lúc này, ta nhớ lại lời của Tư Lễ mắng Đào Lệ.
Người trái với luân thường đạo lý, chuyện gì cũng làm được.
Trong đầu ta đột nhiên hiện ra một giả thuyết táo bạo, nếu các vụ án của Đào Hành Như và Trang Côn cùng bốn người khác không phải do một hung thủ gây ra thì sao?
Năm đó, Thường Tề Tinh và bốn người kia vì thù riêng mà giet Đào Hành Như và làm cho cái chet của ông ta trông như là tai nạn, còn xúi giục những người xuất thân hàn môn trong trường đến lễ tang của Đào Hành Như, làm nhục người chet.
Một ngày nào đó, Đào Lệ, người đầu gối tay ấp với Thường Tề Tinh, phát hiện ra bí mật của họ, nàng chọn cách dùng cùng một phương pháp để báo thù cho phụ thân mình.
Ta và Tằng Tri Hứa thực sự chỉ có thể tìm thấy chứng cứ ngoại phạm của Thường Tề Tinh, nhưng không tìm thấy của Đào Lệ.
Nếu hung thủ thực sự là Đào Lệ thì đoạn hôn nhân thất bại của nàng ta và Thường Tề Tinh, một mối quan hệ mà cả hai đều dày vò lẫn nhau nhưng không chịu hoà ly, dường như có thể tìm được một lời giải thích hợp lý.
Khi ta gõ cửa nhà Đào Lệ một lần nữa, nàng ta đang nấu ăn.
Mấy ngày không gặp, nàng ta đột nhiên hứng chí, bỏ cuốn sách toán yêu quý sang một bên, nàng đi theo đại nương nhà kế học nấu cơm nhà.
Đôi tay quen cầm bút giờ đây cũng có thể cầm dao nhỏ, dùng bí đao để khắc hoa tăng thêm thú vui cuộc sống.
Ta hỏi nàng không phải không có hứng thú với nấu ăn sao?
Đào Lệ khắc hoa rất tập trung, đợi đến khi hoàn thành, mới nhạt nhẽo đáp lời ta, con người luôn thay đổi.
Nhìn Đào Lệ, nhìn dáng vẻ tỉ mỉ nghiêm túc của nàng, ta khó mà nói rõ nàng đó có phải là một kẻ cuồng yêu hay không.
Nhân lúc Đào Lệ đang nấu ăn ở nhà, ta đi dạo quanh nhà hai người họ nhằm tìm kiếm chút manh mối.
Rất nhanh ta phát hiện ra một điểm kỳ lạ, trong nhà Đào Lệ và Thường Tề Tinh không có nghiên mực, họ dùng bát để mài mực.
Đào Lệ đã nấu xong bữa nhưng nàng lại nói với ta hôm nay không phải ngày Thường Tề Tinh nghỉ, hắn không về nhà.
Ý nàng là dùng thái độ nhiệt tình độc đáo của mình giữ ta ở lại dùng bữa, không, đúng hơn là thử độc.
Nhưng thật bất ngờ, món ăn của Đào Lệ nấu rất ngon, quả không hổ danh là người có khả năng học hỏi tuyệt vời.
Ta dùng việc nấu ăn làm mồi, bắt đầu gợi chuyện: “Khả năng nấu nướng này của tiên sinh có thể đi làm đầu bếp rồi, hồi nhỏ ngàu thật sự chưa từng học qua sao?”
Đào Lệ đáp: “Khi ta còn nhỏ đều do phụ thân nấu, tay nghề của ông rất tốt, chắc là thấm nhuần dần mà thôi.”
Ta thuận thế hỏi: “Tiên sinh không kịp gặp mặt Đào đại nhân lần cuối, chắc là rất đau buồn?”
Ánh mắt Đào Lệ u ám, nàng nói: “Lúc đó ta đang ở Biện Châu, dù ta có muốn về chịu tang, nhưng đường xá xa xôi, dẫu gấp rút đến đâu cũng không kịp.”
Có lẽ thực sự bị ta chạm đến nỗi đau giấu kín nhiều năm, Đào Lệ thật sự mở lòng kể chuyện.
Đào Lệ nói: “Phụ thân là người đầu tiên phát hiện ra ta có tình cảm với Thường Tề Tinh. Ông hỏi ta có phải thích Thường Tề Tinh không, ta nghĩ một lúc, cảm thấy không phải là không thích bèn thừa nhận.”
“Lúc đó ông không nói gì nhưng ta không ngờ vừa quay đầu ông liền cản trở tiền đồ của Thường Tề Tinh, khiến hắn phải rời Biện Châu. Lúc đó ta mới nhận ra, thì ra những sự dung túng của ông, chỉ là đánh lừa ta mà thôi.”
“Phụ thân căn bản không đồng ý ta thích hắn, từ đầu đã có ý định chia rẽ chúng ta.”
“Lúc đó ta tức giận, lần đầu tiên trong đời chống đối ông mà đánh xe ngựa đuổi theo Thường Tề Tinh.”
“Bây giờ nghĩ lại, dẫu có bao nhiêu oán giận không hài lòng, ông cũng đã là một nắm đất, còn có gì để hận hay không?”
Đào Lệ nói đến đây thì cười khổ.
Ta đột nhiên nhận ra, chiến tích huy hoàng năm đó của Đào Lệ, thay vì nói là tâm tình yêu đương, chi bằng nói là một sự giận dữ và không cam lòng vì phụ thân phản bội mình.
Đào Lệ lại nói: “Sau này ta trở về lo liệu hậu sự cho ông, khi ta kiểm kê tài sản thì tìm thấy một bức thư tay do ông để lại.
“Đó là thư ông viết cho Lại Bộ, hy vọng Lại Bộ Thị Lang có thể giúp đỡ, tìm cách điều Thường Tề Tinh trở lại kinh thành. Lý do là dù sao hắn cũng là con rể, ông không muốn nữ nhi chịu khổ.”
“Ngươi tin không? Khi ta nhìn thấy bức thư này, thực sự không thể rơi nổi một giọt nước mắt.”
“Lúc đó ta mới phát hiện ra, thì ra phụ thân ta không phải là người vô tình vô nghĩa, ngược lại, ta mới thực sự là kẻ lòng lang dạ sói, không biết tốt xấu.”
Sau này, Thường Tề Tinh nhờ vào bức thư đó trở về kinh thành, dù y vẫn chỉ có thể làm việc trong Lương Đạo Thự* nhưng đãi ngộ tốt hơn nhiều so với ở Biện Châu.
* Lương đạo thự (粮道署) là một cơ quan trong hệ thống chính quyền thời phong kiến Trung Quốc, chịu trách nhiệm về việc quản lý và điều phối nguồn lương thực, đảm bảo cung cấp lương thực cho quân đội, các cơ quan chính quyền và dân chúng.
Đào Lệ lắc đầu, nàng lại nói:
“Ta từng nghĩ rằng người thanh cao như Thường Tề Tinh, nhất định sẽ từ chối ý tốt của phụ thân, đoạn tuyệt với ông ấy. Nhưng ta đã đánh giá quá cao lòng tự trọng của hắn.”
“Ta lại nghĩ, khoảng cách giữa ta và Thường Tề Tinh sẽ tan thành mây khói sau khi trở lại, nhưng ta đã đánh giá thấp khúc mắc giữa hắn đối với phụ thân. Nói đến cùng, tất cả là do ta tự chuốc lấy, không liên quan đến ai.”
Ta suy nghĩ một lúc rồi hỏi Đào Lệ: “Đến giờ, ngài còn yêu Thường Tề Tinh không?”
Đào Lệ cầm đũa, cho đến khi bát canh trong tay nàng ta đã nguội lạnh vẫn không trả lời câu hỏi của ta.
Ta lại hỏi: “Vậy ngài có hận hắn không?”
Lần này Đào Lệ trả lời rất nhanh, nàng ta cười cười, kể lại một chuyện.
Khi đó là mùa thu đầu tiên sau khi họ trở lại kinh thành, Thường Tề Tinh không muốn sống ở phủ Tế tửu, Đào Lệ liền theo y chuyển đến căn nhà nhỏ này.
Một ngày, một cặp phu thê mang hai giỏ lớn, vui vui vẻ vẻ gõ cửa nhà Đào Lệ, hỏi nàng có phải là nữ nhi của Đào Hành Như hay không.
Thấy Đào Lệ gật đầu, phụ nhân nữ hớn hở đẩy giỏ đến trước mặt Đào Lệ, bên trong toàn là những quả vải tròn trịa.
Phụ nhân nói nàng tên là Xuân Thiền đến từ Kế Châu, nàng muốn cảm ơn Đào Hành Như đại nhân đã bỏ tiền ra lập trường học ở quê nhà, cho đệ đệ cơ hội đọc sách để sau này thi khoa cử.
Phụ nhân đó còn nói mình đã hỏi thăm rất lâu mới biết được tên Đào đại nhân, tiên sinh ở tư thục luôn nói người tốt muốn giữ bí mật, nhưng Xuân Thiền cảm thấy đã nhận ân huệ thì không thể không báo đáp.
Phụ nhân nghe nói nữ nhi của người tốt đó thích ăn vải, đây là đặc sản nổi tiếng ở Kế Châu nên nàng luôn muốn mang một ít đến kinh thành.
Nhưng từ Kế Châu đến kinh thành xa xôi, vải làm sao mà mang đến được? Đúng lúc năm nay nàng gả cho phu quân là một người làm trong trạm dịch, nhân tiện thời tiết này mới có thể mang đến.
Đào Lệ nhìn chằm chằm vào hai giỏ lớn đầy vải, mãi vẫn không động đậy.
Đêm đó, kinh thành mưa như trút nước.
Đào Lệ ở nhà đợi đến khuya, mới thấy Thường Tề Tinh ôm một gói bánh ngọt chạy về nhà trong mưa.
Đào Lệ không chờ nổi nữa, lao ra ngoài mưa, lao thẳng vào lòng Thường Tề Tinh.
Thường Tề Tinh thấy nàng như một con chuột lội nước, chạy nhanh lao tới mình, y vội vàng ôm lấy nàng, che chở cho nàng.
Nhưng như vậy, gói bánh ngọt trong tay y lại không giữ được mà rơi thẳng xuống vũng nước.
Đào Lệ không để ý đến bánh ngọt, nàng nắm lấy vạt áo của Thường Tề Tinh, xúc động nói: “Thường Tề Tinh, có người nói với ta, phụ thân từng lập tư thục ở quê nhà…”
Thường Tề Tinh ngẩn ra, giọng nói nhanh chóng bị mưa lớn nuốt chửng, cũng không biết có phát ra tiếng hay không.
Đào Lệ tiếp tục nói: “Ngươi nói xem ông ấy có phải… có phải… không phải người xấu không?”
Nàng nhìn Thường Tề Tinh đầy hy vọng, nàng muốn y giúp nàng điều tra: Nếu Đào Hành Như không phải người xấu, liệu có thể minh oan cho phụ thân, liệu có thể xóa bỏ khoảng cách giữa họ không?
Thường Tề Tinh ngắt lời ảo tưởng của Đào Lệ.
Y nói: “Nếu ông ta không phải người xấu thì bây giờ ta đã ở Thái Sử Cục chứ không phải ở nha môn, cũng không phải là một chức quan nhỏ ai cũng có thể giẫm đạp.”
Hy vọng trên mặt Đào Lệ ngay lập tức đông cứng lại.
Thường Tề Tinh nhìn bánh ngọt dưới đất đã bị mưa đập nát biến thành một đống bùn lầy, thở dài một hơi, y nhét cây dù vào tay Đào Lệ.
“Vào đi.” Thường Tề Tinh nói, “Nàng dầm mưa rồi, sợ là sẽ bị cảm, để ta đi lấy thuốc.”
Thường Tề Tinh chạy vào mưa, bóng lưng bị nước mưa làm mờ đi rồi nuốt chửng, lại một lần nữa rời khỏi Đào Lệ.
Đào Lệ kể đến đây mắt đã ngấn lệ.
Đây là lần đầu tiên ta thấy nàng ta khóc.
Nàng mang theo vô vàn hận ý nói: “Ta hận bản thân mình, tại sao ta lại yêu hắn.”