Tối ngày thứ hai, phủ Nghĩa Tín quân đột nhiên cập rập hẳn, kiếm khách trong phủ kẻ ra người vào, đại phu trong thành dồn dập được mời tới.
Một hồi náo động, đến nửa đêm thì đột nhiên im bặt.
Ngày thứ ba, mọi người trong thành Lâm Truy đều cảm giác bầu không khí khác lạ!
Bầu không khí thật khác lạ.
Người đi trên đường ai nấy đầy mặt bi ai, đặc biệt du hiệp các nước càng thêm mặt ủ mày chau.
Trong phủ Nghĩa Tín quân người đi kẻ tới vội vã, ai nấy đều không hề che giấu nét đau thương trên mặt.
Đương khi vài kẻ đi đường còn ngạc nhiên, một tiếng khóc thất thanh từ giữa phố vang lên, “Trời xanh nhẫn tâm thay, hồng nhan bạc mệnh! Qua đi vội vã thay, khác nào sương mai!”
Tiếng khóc than vang dội, đầy bi thương, đến sau đã là đồng loạt.
Mọi người theo tiếng mà nhìn, trông thấy năm người Sở, thân mặc bào phục vẽ đủ những hồ núi, những kiểu chữ quái lạ, mặt trời tinh tú, chân đi trần, hông mang thắt lưng bằng đay, tóc rối bù, vừa khóc nức nở vừa đạp ca mà tiến.
Năm người trên tay mang một dải lụa trắng tinh, dải lụa trắng được họ nâng trong lòng bàn tay ấy, theo gió phất phơ.
Bước chân họ trật tự mà tiến, gương mặt tang tóc của họ chan chứa những lệ, quả thực là bi thương tột độ.
Họ vừa đạp ca vừa thẳng đường về phía phủ Nghĩa Tín quân.
Đoàn người lúc đầu chỉ là năm người, càng về sau lại càng nhiều.
Người Sở vốn tính đa sầu đa cảm, những người gia nhập đoàn người trước hết đều là người nước Sở.
Dần dần cả người Tề cũng tiến vào đoàn người, song thành phần chính vẫn là các du hiệp.
Sau cùng đoàn người đã lên đến hơn trăm. Lời ca mà họ cùng xướng vang đã không phải lời văn điếu cũ, mà đã được biên lại tại chỗ. Ấy vậy mà tiếng ca “Trời xanh bất nhân thay, hồng nhan bạc mệnh! Qua đi vội vã thay, kháo nào sương mai!” chưa mài dũa này, chan chứa vô ngàn tiếc hận xót thương này, lại khiến cho tất cả cảm nhận một tia bi thống với thế đạo sống chết vô thường, với đời người hồng nhan bây giờ, xương trắng nay mai, quyền thiếp hôm nay, ăn mày hôm sau.
Nỗi đau thương khiến đoàn người tụ tập thêm đông, càng ngày càng đông, sau cùng đã có tới ngàn người đạp ca diễu hành, khắp thành khúc bi ai.
Tề công tử Trật vừa vào thành liền đụng đầu đoàn người trên. Quy mô đoàn người quá lớn đến độ đường phố chật cứng, đoàn xe của công tử Trật không thể nhúc nhích mảy may.
Y ngạc nhiên vén rèm xe, quan sát những con người đang bi thương tuôn lệ, đau khổ quằn quại. Xem xét hồi lâu mà hắn vẫn không tìm ra một khuôn mặt quen thuộc nào trong đám người ấy cả.
Điều này khiến y có phần ngạc nhiên, giả sử có một vị quyền quý nổi danh nào chết, thì đoàn đưa tiễn cũng không thể nào hỗn tạp đến độ tất cả đều là dân đen. Song nếu chẳng phải một bậc tài đức quyền quý, thì thiên hạ, trong toàn bộ Tề đô này, ai chết đi có thể khiến nhiều người thương tiếc nhường vậy?
Tề công tử Trật cau mày, vẫy tay gọi một kiếm khách tới, nói: “Ra hỏi thử xem.”
“Dạ.”
Chỉ chốc sau, kiếm khách đã quay lại bên cạnh xe ngựa của công tử Trật, chắp hai tay mà cảm khái:
“Người mất là cơ thiếp của Nghĩa Tín quân!”
“Sao?”
Tề công tử Trật kinh hãi đến tái mặt, y ngẩng phắt đầu lên, không dám tin trừng trừng nhìn kiếm khách. Chỉ trong giây lát gương mặt tuấn tú của y đã trắng nhợt.
Kiếm khách cũng đầy mặt thương tiếc bùi ngùi, hắn lại thở dài một tiếng mà thưa: “Thần cũng không dám tin làm vậy. Tân Điền ngày ấy gặp gỡ, nàng dung nhan rực rỡ, dáng vẻ khí phái, quả là tướng phú quý thậm thay. Một phụ nhân khuynh thành dường vậy, hà cớ mà đi nhanh như thế?”
Công tử Trật mặt trắng bệch, chỉ trân trân nhìn kiếm khách, nhìn miệng hắn mở ra khép lại, nhưng không có lấy một chữ lọt vào tai.
Lúc này tràn ngập trong tâm trong trí hắn, đều là đôi mắt tựa mặc ngọc của mỹ phụ diễm lệ lộng lẫy kia.
Chỉ là một thoáng qua, nhưng một thoáng ấy, đôi mắt mặc ngọc thiên hạ hiếm có, đôi mắt giống hệt một vị cố nhân, đã thân thiết vô cùng, ôn hòa vô cùng mà nhìn y.
Phụ nhân như thế sao có thể nói chết là chết?
Nghĩ tới đây y liền xốc màn xe, nhanh chân đến trước mặt một kiếm khách, trầm giọng ra lệnh: “Đưa ngựa cho ta.”
“Vâng.”
Kiếm khách vốn đang hết nhìn Đông nhìn Tây liền vội vàng nhảy xuống ngựa giao cho công tử Trật.
Đang lúc công tử Trật dợm vắt người lên ngựa thì một lão thần liền vội vàng tiến tới. Lão chắp tay về phía công tử Trật hỏi: “Công tử muốn đi đâu?”
“Phủ Nghĩa Tín quân!”
Công tử Trật vừa phun vài chữ này ra thì không nói thêm, thúc ngựa lách qua đám đông, vó ngựa tung bụi chẳng mấy chốc đã biến mất trước mặt mọi người.
Lão thần quát lớn: “Mau đuổi theo!”
“Dạ!”
Người trên đường thật sự quá đông, hơn nữa ai nấy đều thương tâm tột độ. Y mới thúc ngựa chưa được trăm bước liền bắt gặp phía trước giữa đường, một người Sở đang nằm ngửa mặt lên trời chắn ngang. Người Sở nọ cứ thế mình tr@n nằm giữa phố, mặt nhòa những lệ, như thể trần đời đã không còn gì luyến tiếc. Hắn trợn trừng nhìn lên trời, cao giọng kêu gào đau đớn: “Trời xanh bất nhân thế! Đời đó mà mong manh! Một trang tuyệt sắc nhường vậy, tuyệt sắc đến nghiêng nước nghiêng thành, mà ta chưa hề chiêm ngưỡng, sao có thể chết rồi? Ôi ôi ôi…. Sao nàng có thế chết rồi?”
Nỗi bi thương khóc lóc, bất giác đã lây sang công tử Trật. Gương mặt tuấn tú của y càng thêm nhợt ra, hai mắt chát chúa, trong đầu lại hiện lên đôi mắt mặc ngọc trong veo ấy.
Một đường đi có người khóc than nức nở, có kẻ mình tr@n kêu gào chẳng dứt, có người ngửa đầu nốc rượu, khắp phố đảo điên điên đảo, tựa như tất cả, trong thời khắc này, đem mọi thảy sợ hãi với tử vong, lưu luyến với mỹ sắc mà trút ra.
Có quá nhiều kẻ đều trong trạng thái ấy, dường như cả thành ai nấy đều trầm mình vào bi thương, thế nên công tử Trật cưỡi ngựa chạy qua không hề suôn sẻ chút nào.
Y tránh trái tránh phải, rốt cuộc mất gần nửa canh giờ mới tới được phủ Nghĩa Tín quân.
Trong phủ Nghĩa Tín quân rất náo động. Bên ngoài chen chúc những xe là ngựa, quý nhân ra ra vào vào, dù họ vẫn ăn mặc như ngày thường, không hề có ý vì một cơ thiếp mà để tang, nhưng nét mặt ai nấy đều vô vàn thương tiếc.
Công tử Trật mau chân nhảy xuống ngựa, cũng không thèm buộc dây cứ thế bỏ mặc tuấn mã ở đấy, vội vã chạy tới đại môn phủ Nghĩa Tín quân.
Dù sao thân phận của y cũng không tầm thường.
Thế nên vừa khi công tử Trật xuất hiện trước cổng, một kiếm khách đã nhanh chóng cao giọng truyền báo: “Công —–”
“Công tử Trật đến —-“
Tiếng khóc thương khắp viện đột nhiên im bặt.
Vô số cặp mắt hướng về phía y, chẳng qua lúc này công tử Trật không rảnh để ý những kẻ này.
Y chỉ muốn biết, mỹ cơ với đôi mắt mặc ngọc kia, có thật sự chết rồi hay không.
Sao nàng có thể dễ dàng chết như thế?
Thình lình, mặt hắn trắng bệch ra, môi mím thành một đường, vành mắt chát đắng, vì người chết chỉ là một mỹ cơ tầm thường, không danh chẳng phận, thế nên linh đường của nàng chỉ được đặt tại một góc khuất mắt nhất trong phủ Nghĩa Tín quân. Công tử Trật chưa lại gần đã nghe một tràng tiếng chuông vang, dồn dập mà xa xăm, hòa cùng bài kinh xướng cầu hồn khản đặc, “Hồn ơi hồn hỡi, về miền cũ….”
….
Tiếng chuông vang vọng còn kèm theo một loạt những điệu múa với tiết tấu kì quái. Trong góc đó, trên những cành cây và mái hiên đều treo lụa trắng.
Nhìn những dải lụa trắng, nghe tiếng hát cầu hồn, công tử Trật dừng bước chân, trong phút chốc y như bị rút cạn tất cả sức lực.
Đúng lúc này, một loạt tiếng bước chân dồn dập vang lên, theo sau là vài âm thanh quen thuộc, “Công tử, ngài đường đường là con trai Tề hầu, mà kẻ chết chỉ là cơ thiếp của một tên bề tôi nịnh hót, sao ngài có thể đích thân đến chốn nhơ bẩn này?”
“Công tử, xin ngài về cho!”
“Công tử xin ngài về cho —-“
Trong những tiếng cầu xin vang vọng mà áp bức, công tử Trật thẫn thờ ngẩng đầu, y ngơ ngác nhìn những dải lụa phất phơ trong gió, sau đó quay đầu, nhìn về Nghĩa Tín quân nghe được xôn xao, đang thong thả tiến ra nghênh đón.